Thứ Ba, 3 tháng 11, 2015

Ông Mai Văn Hoan viết về thầy Huấn của tui


MỜI BÀ CON GHÉ ĐỌC BÀI MAI VĂN HOAN VIẾT VỀ THƠ THẠCH QUỲ!

CỐT CÁCH NGƯỜI MIỀN TRUNG
QUA THƠ THẠCH QUỲ

Miền Trung là vùng đất “gió Lào cát trắng”, bão lụt triền miên; là nơi phải chịu đựng bao cuộc chiến tranh vô cùng tàn khốc; cũng là vùng đất có nhiều phong cảnh kỳ thú… Tất cả đó đã góp phần tạo cho con người miền Trung những đặc điểm riêng, những cốt cách riêng. Nếu như người miền Bắc lịch lãm, mềm mỏng, tao nhã; người miền Nam phóng khoáng, hào hiệp, cởi mở thì người miền Trung cứng rắn, khảng khái, thật thà. Nét riêng này đã ảnh hưởng ít nhiều đến sáng tác của các tác giả gắn bó khăng khít với mảnh đất miền Trung, trong đó có Thạch Quỳ.

Nhà thơ Thạch Quỳ tên thật là Vương Đình Huấn, sinh năm 1941, tại làng Đông Bích, dưới chân núi Quỳ Sơn, thuộc xã Trung Sơn, Đô Lương, Nghệ An, trong một gia đình trí thức Nho học. Ông nội nhà thơ thuộc dòng dõi khoa bảng, ông ngoại từng thi đỗ ba khoá tú tài, bà ngoại và mẹ là cả một kho tàng văn học dân gian. Cho đến nay, Thạch Quỳ đã cho ra mắt 8 tập thơ. Anh là một trong những tên tuổi sáng giá của thế hệ những cây bút trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và vững bước trên con đường thi ca đầy chông gai cho đến bây giờ.
Thời niên thiếu, anh vừa đi học vừa phải chăn trâu, cắt cỏ dưới chân núi Quỳ. Cái bút danh Thạch Quỳ sinh ra từ đó (Thạch Quỳ là tảng đá ở núi Quỳ). Những vần thơ đầu tiên anh ngồi viết trên tảng đá ấy là những vần thơ bắt chước những bài hát đồng dao của lũ trẻ chăn trâu: Nhổ lác nhổ từng cây/ Nhổ năn măn từng rễ/ Lưng cúi gập suốt ngày/ Bắp chân đầm máu đĩa… (Bài hát của những người nhổ cỏ năn, cỏ lác ở vùng đồng chiêm trũng). Nếu không phải là người trong cuộc chắc không thể viết được những câu thơ giàu chất hiện thực như thế. Anh kể: thời đó, anh cùng với nhà thơ Vương Trọng từng đội những giành phân đầy, bụng đói cồn cào, cố hết sức leo dốc, vượt qua đỉnh núi Quỳ. Có lẽ phải trải qua những tháng năm nghèo túng ấy mà sau này, khi viết về cái nghèo, hiếm nhà nhà thơ nào ở xứ ta diễn tả sinh động, hóm hỉnh, thấm thía và sâu sắc như anh: Cái nghèo đội nón cời và nhón chân từng bước/ Cười sưa răng trên miệng ấm sứt vòi. Anh nhân cách hóa cái nghèo thành một kẻ vô cùng ranh mãnh: Mày núp trong vừng trán mẹ răn reo/ Mày ẩn dưới gót chân em nứt nẻ / Mày luồn lọt qua trăm ngàn mối chỉ/ Để nằm trong mảnh vá áo con ta…/ Đêm ta ngủ thì mày hóa kiến/ Bò nôn nao trong ruột đói của ta. Anh nhận ra đằng sau cái nghèo là những thế lực vô cùng độc ác: Cái nghèo có nọc/ Đốt cha ông từ thuở chẳng chăn màn (Cái nghèo). Chính bọn chúng là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cái nghèo, cái đói của dân. Nhưng người dân quê anh nói riêng và người miền Trung nói chung không cam chịu cảnh nghèo. Họ cố tìm đủ mọi cách để thoát khỏi đói nghèo. Thạch Quỳ thể hiện cái ý chí, cái nghị lực phi thường ấy theo cách của mình: Lòng viên sỏi vẫn giữ màu máu đỏ/ Núi nghiêng vai vác con đường lên (Tặng những cô gái đập đá bên đường không tên); Giọt mưa gom hạt bụi hóa phù sa (Gom nhặt trên bãi bom B.52); Nửa phần đời chong mắt đèn xó tối/ Nửa phần đời khép mắt ngóng ngày lên (Nửa phần đời)… Về con người Thạch Quỳ, nhà thơ Võ Văn Trực nhận xét: Vì yêu quê đến câu nệ, đến "cố chấp”, anh cố giữ được bản tính của quê hương đôi lúc gàn dở và cực đoan - người ta thường gọi là "cái gàn của anh đồ Nghệ”. “Bản tính của quê hương” mà nhà thơ Võ Văn Trực nói đến ở đây cũng chính là cốt cách của người miền Trung. Những giai thoại về cái gàn của “ông đồ nghệ Thạch Quỳ” đã phần nào thể hiện bản tính thẳng thắn, khảng khái của những con người ở vùng đất từng được mệnh danh là “chó ăn đá, gà ăn sỏi” này. Một bạn đồng nghiệp của tôi kể rằng: Thời mới chia tỉnh (1991), ông Hồ Phi Phục (lúc đó làm Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Nghệ An) vốn ngưỡng mộ tài năng thơ ca và bản tính thẳng thắn, cương trực của anh nên gới ý cho Mặt trận Tổ quốc VN tỉnh giới thiệu anh vào danh sách đề cử đại biểu Quốc hội. Nhà thơ Thạch Quỳ từ chối mãi không được. Hôm lấy ý kiến cử tri tại dãy nhà C/9, khu tập thể Quang Trung, anh kiếm cớ không đến tham dự bởi nghĩ rằng sự có mặt của mình sẽ khiến bà con e ngại. Quả đúng như vậy! Nhờ sự vắng mặt của anh mà bà con phát biểu về anh hết sức thoải mái. Bà con thừa nhận anh là người có tài, cương trực, thẳng thắn nhưng thiếu hòa đồng; thường xuyên không tham gia làm vệ sinh cầu thang ngày chủ nhật hàng tuần; ít đi thăm hỏi bà con khu phố trong những dịp lễ tết… Khi nghe thông báo lại ý kiến cử tri, anh thở phào nhẹ nhõm và xác nhận: ý kiến bà con là hoàn toàn đúng.
Đọc lại toàn bộ thơ Thạch Quỳ, điều dễ nhận nhất là cái khí chất mạnh mẽ và đầy bản lĩnh của một cây bút từng trải: Trơ trơ tảng đá/ Đá đổ mồ hôi/ Biết hay không biết/ Lầm lì mồ côi (Tảng đá); Cả cái chết đợi chờ tôi trước mặt/ Hù dọa tôi, tôi chấp nhận lâu rồi. Thạch Quỳ là một con người đầy kiêu hãnh – một sự kiêu hãnh hết sức chính đáng. Bởi anh nói rất trung thực bản tính và tài năng của mình: Tôi đầy ứ, thẳng căng, tôi mạnh khỏe/ Tôi cao hơn đất đá mọi công trình/ Tôi không phải sơ đồ bản vẽ/ Tôi cao hơn người máy, thần linh” (Tôi). Thật ra thì Thạch Quỳ rất tự biết mình: Không bé nhỏ tầm thường, không vĩ đại/ Có thể vứt đi trong xó tối u buồn / Có thể đứng trên đôi chân vững chãi/ Tôi một mình, tôi lớp lớp triều dâng…(Tôi). Mặc dù trải qua bao gian nan, thử thách song anh vẫn không nguôi khát vọng: Từng đối mặt với bạo tàn, chết chóc / Máu trào tuôn, sẹo đóng tự trong hồn / Tôi mệt mỏi đến không còn sợ chết / Nhưng vẫn lòng ham sống thật tôi hơn. Anh khảng khái tuyên bố: Những đau khổ không làm tôi gục xuống (Tôi).
Thạch Quỳ không chỉ có thế. Anh còn là nhà thơ của những suy tư, trăn trở: Bàng hoàng giữa một ngày/ Mình sống hay chẳng sống?”(Không đề); Nghìn năm mưa đã từng mưa/ Thấm vào viên sỏi hay chưa thấm vào? (Lời nghìn năm)… Anh là nhà thơ của những triết lý, chiêm nghiệm: Lưỡi gươm ròng ròng máu tươi/ Nước mắt ướt đầm yên ngựa/ Chỉ có đất với trời và cỏ/ Hiểu đường đi của giọt máu người” (Qua đền Cuông ghi chuyện cũ); Cụ đi tìm chân kinh/ Ở thứ kinh không chữ (Bên mộ Nguyễn Du)… Anh là nhà thơ của tình yêu lứa đôi: Trời đã tết. Khói xanh mờ bụi nước/ Góc vườn con, hoa mận đã đơm khuy/ Lòng như đất lặng thầm mơ dấu guốc/ Cỏ thanh thiên hoa trắng đợi em về (Đợi em ngày giáp tết); Đó là chiều nắng nhạt lá thông rơi/ Đó là sớm kim chi màu cỏ biếc. Tôi trở lại sau mười năm cách biệt/ Bên em trước cỏ lặng yên ngồi (Huế)… Nhưng cái cứng rắn, cái thẳng thắn, cái khảng khái trong thơ Thạch Quỳ thể hiện cốt cách của người miền Trung rõ nét hơn cả. Điều đó đã góp phần quan trọng giúp cho thơ anh có tầm ảnh hưởng khá sâu rộng.

Mảnh đất miền Trung là mảnh đất giàu truyền thống thơ ca. Nhiều nhà thơ tài danh đã sinh ra trên mảnh đất này, như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Tố Hữu, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Hữu Loan, Phùng Quán… Bằng tài năng và tâm huyết của mình các nhà thơ miền Trung đã góp phần thúc đẩy sự phát triển nền thơ ca nước nhà qua các thời đại. Tìm hiểu cốt cách người miền Trung trong thơ Thạch Quỳ cũng chính là tìm hiểu bản sắc riêng của tác giả, của từng vùng miền khác nhau. Thơ dù đổi mới, cách tân đến đâu nhưng nếu đánh mất bản sắc của mình, của quê hương mình, của dân tộc mình thì khó lòng có sức lan tỏa và sức sống lâu bền.

Mai Văn Hoan

Nhà thơ Thạch Quỳ


1 nhận xét:

  1. Thầy giáo của tôi . Dạy toán lớp 10b _năm học 1969 _1970 ở cấp 3 tân kỳ .
    Trông ảnh thầy mà thấy dung nhan
    Nét đa đoan ,gian nan ,hiện màu sắc thái
    Nổi chìm ,khắc khoải đã từng nếm trải
    Có phải không.? Sự đày ải số thầy tôi ...
    Đời biết là cõi tạm mà thôi
    Rồi cũng về với cát bụi buông trôi ...
    Nhìn ảnh thầy thương thương quá thầy ơi
    Khi còn học ,biết lãng tử của thầy rồi
    Và nhân cách của thầy toán làm thơ rất trội

    Trả lờiXóa